Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Nghệ thuật Bonsai và Cây cảnh

Chuyên mục:Thiết kế nhà ống

tu van | thiet ke | kien truc | xay dung | nha dep | san vuon | vuon bon sai | trong bon sai| vuon trong nha | tieu canh | non bo | bon sai | tieu canh san vuon | cay canh bon sai | thiet ke vuon | thiet ke nha vuon | cay canh san vuon| bon sai dep

 

 

xay nha, mau nha dep, biet thu dep, sua nha

 

Bonsai thường được gọi là cây cảnh thu nhỏ lại, thịnh hành tại Nhật cũng như nhiều nước Đông Phương. Dưới con mắt của người Tây Phương, nghệ thuật cây cảnh hay "nghệ thuật trồng cây thu nhỏ" là một điều kỳ lạ, thậm chí được xem là "trái tự nhiên". Tuy nhiên đối với người Nhật, nghệ thuật trồng cây cảnh thu nhỏ là một khoa thẩm mỹ, đồng thời trong một chừng mực nào đó, cũng là môn triết học.

 

Người Nhật thường cho rằng: Trong khi giáo dục về đạo đức, thì nghệ thuật chơi cây kiểng cũng đã góp phần bổ túc cho nền giáo dục nầy. Thiếu niên nam nữ Nhật được giới thiệu, hướng dẫn trồng cây thu nhỏ ngay ở cấp tiểu học và trung học. Quan sát, người ta dễ dàng nhận biết được tính tình của một con người qua cây cảnh người ấy trồng. Cũng theo chiều hướng đó, có thể biết được tính tình của nhà hội họa qua bức tranh của họ.

 

Trong thuật trồng cây, những cây cổ thụ tí hon trồng trong những chiếc chậu cạn, thu gọn trong khuôn khổ bé nhỏ, có nhiều giá trị. Người chơi cây cảnh loại nầy phải là những tay làm vườn lành nghề, say mê trong nghề và khiếu thẩm mỹ cao.

 

Một cây dù nhỏ bao nhiêu cũng là một "đài kỷ niệm thiên nhiên", có kích thước, vô cùng tinh tế, biến đổi tùy theo môi trường, tùy theo các loại rêu mọc dưới gốc, tùy theo mực nước ngập tràn bộ rễ, tùy theo bóng hòn non bộ được đặt bên cạnh. Đó là những chất liệu của Bonsai. Người phương Đông có truyền thống ca ngợi và tôn trọng tuổi già. Bonsai là cách thể hiện tuổi già cây cỏ được thu nhỏ và trang trọng. Không làm lạ khi thấy thuật chơi Bonsai thịnh hành khắp nhiều nước phương Đông. Người già lại rất thích Bonsai.

 

Trong những gia đình danh vọng tại Nhật, người có nhiệm vụ chăm sóc cho những công trình Bonsai thường là chủ nhân ông. Vị nầy vừa là y sĩ của cây, đồng thời là một nhà luyện kim ngày nào cũng nghiêng mình trên mấy mẫu đất thử nghiệm nhỏ được dựng trong những lồng kính để nghiên cứu. Một người lương thiện không tránh khỏi những lời đàm tiếu của dư luận chung quanh khi bán một cây cảnh mà không có ý kiến của người đã ra công trồng và chăm bón. Người giữ cây có một quyền lực tinh thần vô cùng thiêng liêng đối với các tác phẩm của ông ta đã từng ra công vun quén. Phải được người giữ cây cho phép mới được định đoạt số phận của các chậu cảnh. Phân tán các cây cảnh chẳng khác gì bán mất con cái của người giữ cây. Cho nên tại Nhật không thấy những chợ bán cây cảnh và người mua cũng tự trọng khi tiếp xúc vói kẻ bán cây cảnh. Giá cây cảnh ở đây rất cao.Có nhiều cây cảnh tí hon sống hàng thế kỷ, truyền từ đời nọ sang đời kia. Cứ mỗi lần đông đến, vũ trụ lặng yên, người ta đem trồng xuống đất để chúng lấy lại sức. Đợi đến xuân về, lại đưa chúng vào chậu dành riêng. Để có được một chiếc chậu cho thật vừa ý của Bonsai, có khi người chơi phải tốn rất nhiều năm lục tìm khắp các cửa hàng đặc biệt, các tiệm bán đồ xưa.


Cây cảnh là một công trình nghệ thuật dài lâu, không chút gì giống cách trồng củ uất kim hương hay củ lan dạ hương. Cây trồng cảnh có khi lưu truyền từ đời cha đến đời con. Người ta thường thấy có người đã mất hết sự nghiệp trong làm ăn, mà vẫn không chịu bán mấy cây cảnh tí hon của cha để lại. Vì chính người cha cũng đã thừa hưởng cây cảnh nầy của tiền nhân.


Đối tượng trồng Bonsai


Ở tại Nhật Bản, cũng có những cây trồng chậu (hachiue) ra hoa thật đẹp, tuy nhiên, điều đó không quan hệ gì đến cây cảnh thu nhỏ của Bonsai cả. Hai cách trồng và cảm thụ không giống nhau. Cây cảnh thu nhỏ bất cứ mùa nào cũng đẹp cả, dù đang ra hoa hay trụi lá. Ra hoa có cái đẹp của hoa; trụi lá có cái đẹp của cảnh tiêu sơ. Thiên nhiên luôn luôn phơi bày vẻ đẹp hoàn thiện của nó; - nói theo G. Ohsawa -. Người nước ngoài khi đến thăm nước Nhật thường ngạc nhiên vì không thấy những hoa đẹp khắp nơi như họ thường tưởng tượng đến.


Họ thường suy nghĩ rằng: Nhật Bản vốn là xứ lý tưởng nhất của tất cả các loài hoa. Nhưng khi đến đây, tham quan nhiều nơi, ngay cả khu vườn của các gia đình vọng tộc, họ chẳng thấy mấy cành hoa, mà chỉ thấy nhiều lá, cỏ, rong rêu là những thứ ban đầu họ không để ý đến. Người Tây Phương thường nghĩ và thích màu sắc hoa rực rỡ; người Nhật thì đi tìm vẻ đẹp tiêu sái trong thiên nhiên, hoa lá, đá, sỏi, rong rêu. Dù thô sơ, nhưng nói lên nhiều điều. Một trong những lý do đặc biệt khiến người ta ít quan tâm đến hoa trong những chậu cảnh tí hon là không thể nào thu nhỏ kích thước của hoa, để hoà hợp với những thành phần khác của cây; hoa khó thu nhỏ hơn lá. Cây cảnh có đủ cỡ vì kích thước của chậu có cái rộng mỗi chiều đến 2m, nhưng phần lớn thì không quá cao hơn 30cm. Những năm gần lại đây, người ta lại có kiểu "chơi cây cảnh bỏ túi" với những cây tí hon trồng trong chậu, mỗi chiều chừng 3cm đến 4cm là cùng. Như vậy, những cây hoa trà trồng trong cảnh không hợp, vì quá lớn đã không thể thu nhỏ. Anh đào và hải đường (khaido) cũng bị loại vì lý do tương tự: công hoa quá dài không thu ngắn lại được. Tuy nhiên, một loại anh đào núi, mới được khám phá trong những năm gần đây - anh đào Phú Sĩ - lại có thể trồng làm cảnh. Vài loại cây khác, như bách nhật hồng (hồng tử vi) (sarusuberi) cũng không thích hợp, vì đến mùa hoa, cành vươn ra quá dài, phá mất đi thế thăng bằng của cây và lớp rêu phong cũng đã mất đi phần duyên dáng. Những ví dụ trên đây cho thấy vì chọn những cây nào có thể thu nhỏ lại mới trồng trong khung khổ Bonsai.


Nguyên tắc tạo dáng


xay nha, mau nha dep, biet thu dep, sua nha


Trong cấu trúc Bonsai, số cánh hoa, nhiều hoặc ít, cũng góp phần tạo dáng cho hoa. Cánh hoa càng nhiều thì càng dài và càng làm cho dáng hoa tăng phần tao nhã. Thông thường, Bonsai thường thích những cánh hoa lẻ; hoa chùm không quý bằng hoa đơn chiếc. Tính lẻ loi, cô độc thường đi đôi với tính khiêm nhường, suy tư và thận trọng. Hoa mai Nhật Bản thường được chọn trong chiều hướng đó. Trồng cây cảnh thu nhỏ là một nghệ thuật ít tốn kém mà một người kéo xe hay một người giàu có, dòng dõi quí tộc đều có thể thực hành được. Trong bất cứ phòng khách nào của người Nhật cũng có chỗ dành riêng cho chậu cảnh. Chậu cây đặt trên một chiếc bàn con, phải vừa tầm nhìn của khách ngồi trong phòng để khách thấy được toàn thể mà khỏi nhướn người lên hay phải ngước mắt. Như thế khách mới đủ bình tĩnh nhận xét nghệ thuật cây cảnh, đồng thời cũng xuyên qua đó biết được tâm tính và thị hiếu của chủ nhà, đả biểu hiện rõ nét trong chậu cây yêu quý của họ. Trong phòng khách dường như thiếu vắng những đồ đạc, tranh ảnh, sắc màu rực rỡ, mục đích là để cho khách để ý đến cây cảnh đặt nơi trang trọng của căn phòng. Những câu chuyện xã giao của họ cũng khởi đầu bằng chuyện cây cảnh. Thưởng thức một vật bé nhỏ như thế đòi hỏi phải có tầm nhìn tinh tế, sâu sắc. Thành thử người Tây Phương đến đây trong giao dịch, thù tiếp với phong cách nầy nếu không hiểu được chút gì về Bonsai, cũng là chuyện thiệt thòi, trở ngại. Chính vì thế, trong thị trường người Nhật không ghi danh mục Bonsai, vì theo họ, đưa một chậu Bonsai ra nước ngoài trong hoàn cảnh đó, khiến cho cây cô đơn vô cùng.


Phong cách đặc thù của Bonsai


Thật ra, Bonsai của Nhật cũng có những nét đặc thù. Nét nầy do ýthức của người trồng và sự quý mến cây cảnh. Người ta thường cho rằng nghệ thuật trồng cây cảnh nầy bắt nguồn từ Trung Quốc du nhập và đã có từ đời Đường, Tống. Người Nhật cũng thường du nhập văn hoá, nghệ thuật nước ngoài. Sự du nhập nầy nhiều khi quá đáng, theo quan sát nhiều người. Tuy nhiên, có một điều phải xác nhận là một khi du nhập, thì người Nhật đã biến đổi theo thần trí và hồn tính của mình. Bonsai cũng nằm trong phạm trù nầy. Những chậu cây cảnh Trung Quốc giống như những chậu diệp lan, thường thấy chưng bày trong nhiều khách sạn Âu Mỹ. Nhưng nhìn kỹ, sẽ thấy thiếu sinh khí, hỗn độn, không đặt đúng cách, thậm chí khôngai đoái hoài đến. Chậu cảnh của Nhật thì khác hẳn. Mỗi chậu đều tuân thủ quy luật chính xác, không lẫn lộn vào đâu được, nếu để bên cạnh Bonsai Trung Quốc. Nghệ nhân Bonsai rất am tường quy luật đó. Họ có thứ triết lý riêng cho Bonsai. Triết lý đó là: Chậu cây cảnh là tượng trưng cho sự khắc khổ và khôn ngoan. Hiểu được nghệ thuật đó đã không dễ. Cây cảnh thu nhỏ tiêu biểu cho một cây già lâu năm, đứng trơ trọi một mình trong vũ trụ bao la, có dáng dấp và phong thái rất đẹp. Tạo được hình ảnh như thế cho một cây bé nhỏ chỉ cao khoảng 30cm thường trồng bằng hạt quả là việc không phải dễ dàng gì! Nhưng đó lại là một điều cần thiết trong bước khởi đầu.


Theo người Nhật, bất cứ việc gì muốn được xem là toàn thiện thì không những phải hội đủ các đặc tính vật chất, mà còn mang một tính chất không thể cân lường, không thể nhìn thấy, hướng về cõi vô hình. Người Nhật gọi tên là "sabi". Thuật ngữ "sabi" thật khó dịch ra đúng nghĩa. Có người tạm dịch là "patine", tức là lớp meo mốc, rêu phong, bám vào vật bằng đồng cũ, vào tấm bia cổ. Nhưng "sabi" lại có tính chất tinh tế hơn. Những bậc thầy về Bonsai có nhiều bí quyết để tạo ra nét rêu phong như thế. Không thể dán vào tùy tiện được. Gọi đó là nghề gia truyền, quả không ngoa. Thị trường cây cảnh Mỹ cũng bán sabi! Nhưng đó là giả tạo. Họ không hiểu ý nghĩa của sabi trong nghệ thuật. Đừng nói đến việc tạo sabi đúng phẩm chất. Chúng ta có thể hiểu thêm, khi đi sâu vào. Trong Bonsai Nhật, đôi loại vỏ cây sù sì nhưng mềm tự nhiên có được rêu phong, nhưngphần đông lại không có. Một cây hoàn hảo về mọi mặt trong phép trồng nầy, nhưng thiếu điểm tạo rêu phong nầy tức là chưa đạt. Bonsai thường mang tính "già nua". Có nhiều đặc tính góp phần tạo ra cảm giác "già nua cực độ". Muốn vậy, cần có thời gian. Từ khimới mọc cho đến khi chết, không một bộ phận nào của cây cỏ giữ nguyên tỉ lệ kích thước, vóc dáng, màu sắc của lá, của rễ, của cành. Những thay đổi đó thường gây trở ngại trong việc tái tạo những đường nét chi li trong một mô hình thu nhỏ. Trong phạm vi nầy, người Nhật thường có những "mặc ước" gọi là "ngoại luật" (licences) về thẩm mỹ. Điều nầy cũng giống như ngoại luật trong thi ca. Chơi cây cảnh cũng là một nghệ thuật. Trong phạm vi Bonsai cũng thế. Chẳng hạn như người ta có thể châm chước một cây cảnh có lá không tương xứng với thân và cành vì tương đối lớn, mặc dù đã tìm mọi cách làm cho chúng nhỏ lại và tạo lớp rêu phong cần thiết. Người Nhật cũng chấp nhận một thân cây to đến độ nào đó, quá khổ nếu so với chiều cao của cây. Trong nghệ thuật Nhật, thường có những đột phá đó. Họ đã quen với tính "không tỉ lệ". Cũng như đọc thơ Haiku, xem loại kịch "Nôh". Thơ thì quá gọn, kịch có khi không lời. Cây cảnh Nhật không ra ngoài tính chất nghệ thuật đó.


Tính tự nhiên của Bonsai

 

xay nha, mau nha dep, biet thu dep, sua nha


Một cây cảnh toàn hảo không mang dấu vết gì, kể cả những vết uốn nắn mà nó phải trải qua. Người ta thường ví điều nầy như một người đàn bà từng sống trong khuôn khổ, luôn luôn giữ nụ cười đôn hậu, không để lộ nét khổ đau. Một hiệp sĩ từ chiến trường về phải quên đi những thương tích trên mình, không kể lể với ai. Cây cảnh cũng tương tự như vậy. Không để lại dấu vết nào về thương tích cả. Nghệ thuật Bonsai trọng về tự nhiên. Vỏ cây sần sùi, lồi lõm không đều, mặc dù phủ lớp rêu phong, nhưng phải là không có sự chắp nối, chiết cắt. Những cành vô dụng phải được cắt bỏ đi từ khi mới nhú ra, chẳng khác nào chữa trị tật xấu trẻ em. Tất cả thành phần trong cây cảnh phải hoà hợp, cành không nên già hơn rễ, rễ không già hơn cành. Khác đi, tức là giả tạo.


Một số nét kỹ thuật nhấn mạnh điểm nầy. Quan sát thì rõ. Đầu cây càng già thì càng tròn, trông giống như cái tán. Trái lại cây còn non thì đầu nhọn, được hiểu như tham vọng chưa được thoả mãn, trông thật trơ trẻn. Cũng như người, đến một lúc nào, cây cũng phải biết "an phận" của mình. Không gì khó coi hơn, một cây đã già nua mà "không biết nhẫn", cứ chìa đầu ra, hếch mặt lên trời. Đó là mất quân bình. Cũng là kém khôn ngoan, đã chống lại minh triết của tạo hoá. Chơi cây cảnh phải hiểu nguyên tắc nầy. Muốn tạo cho phần trên cùng của cây bé nhỏ có dáng tròn xinh xắn, cần phải tác động bằng nhiều cách. Hiệu quả tốt nhất là độ cạn của chậu. Các cành đều lệ thuộc ít nhiều vào rễ, vì rễ nuôi cành. Rễ đâm thẳng xuống, thì đầu cây phải nhọn. Rễ đâm ngang thì đầu bằng.


Khi mùa đông đến, người ta bứng cây ra đặt xuống đất trong vườn theo phương pháp hồi xuân, những cành trên thường chỉa lên trời vì đâm rễ xuống. Hiểu nguyên tắc nầy sẽ tạo nên tán tròn. Với những ý niệm kể trên, một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng trong Bonsai phải thể hiện được thế quân bình thiêng liêng trong vũ trụ. Đầu trên của cây hơi cong tròn, trông vẻ khiêm tốn. Nếu không, cây sẽ mất hết ý nghĩa. Tuy nhiên, người ta cũng thấy đột phá một vài cây cổ thụ có những cành bên trên ngả mạnh về sau. Trông tưởng như những trận cuồng phong làm cho xô dạt về một phía. Đó là thể hiện sự khổ đau của những người không muốn an phận, thủ thường. Có những người vào tuổi xế chiều vẫn còn bon chen, mưu danh đoạt lợi. Họ sẽ bị đánh bạt như loại cây nầy. Ngũ hành trong vũ trụ bẻ gãy họ. Người Nhật ít thích kiểu dáng nầy.


Những cách trồng Bonsai


Ở tại Nhật Bản, cũng có những cây trồng chậu (hachiue) ra hoa thật đẹp, tuy nhiên, điều đó không quan hệ gì đến cây cảnh thu nhỏ của Bonsai cả. Hai cách trồng và cảm thụ không giống nhau. Cây cảnh thu nhỏ bất cứ mùa nào cũng đẹp cả, dù đang ra hoa hay trụi lá. Ra hoa có cái đẹp của hoa; trụi lá có cái đẹp của cảnh tiêu sơ. Thiên nhiên luôn luôn phơi bày vẻ đẹp hoàn thiện của nó; - nói theo G. Ohsawa -. Người nước ngoài khi đến thăm nước Nhật thường ngạc nhiên vì không thấy những hoa đẹp khắp nơi như họ thường tưởng tượng đến.


Họ thường suy nghĩ rằng: Nhật Bản vốn là xứ lý tưởng nhất của tất cả các loài hoa. Nhưng khi đến đây, tham quan nhiều nơi, ngay cả khu vườn của các gia đình vọng tộc, họ chẳng thấy mấy cành hoa, mà chỉ thấy nhiều lá, cỏ, rong rêu là những thứ ban đầu họ không để ý đến. Người Tây Phương thường nghĩ và thích màu sắc hoa rực rỡ; người Nhật thì đi tìm vẻ đẹp tiêu sái trong thiên nhiên, hoa lá, đá, sỏi, rong rêu. Dù thô sơ, nhưng nói lên nhiều điều. Một trong những lý do đặc biệt khiến người ta ít quan tâm đến hoa trong những chậu cảnh tí hon là không thể nào thu nhỏ kích thước của hoa, để hoà hợp với những thành phần khác của cây; hoa khó thu nhỏ hơn lá.


Cây cảnh có đủ cỡ vì kích thước của chậu có cái rộng mỗi chiều đến 2m, nhưng phần lớn thì không quá cao hơn 30cm. Những năm gần lại đây, người ta lại có kiểu "chơi cây cảnh bỏ túi" với những cây tí hon trồng trong chậu, mỗi chiều chừng 3cm đến 4cm là cùng.Như vậy, những cây hoa trà trồng trong cảnh không hợp, vì quá lớn đã không thể thu nhỏ. Anh đào và hải đường (khaido) cũng bị loại vì lý do tương tự: công hoa quá dài không thu ngắn lại được. Tuy nhiên, một loại anh đào núi, mới được khám phá trong những năm gần đây - anh đào Phú Sĩ - lại có thể trồng làm cảnh. Vài loại cây khác, như bách nhật hồng (hồng tử vi) (sarusuberi) cũng không thích hợp, vì đến mùa hoa, cành vươn ra quá dài, phá mất đi thế thăng bằng của cây và lớp rêu phong cũng đã mất đi phần duyên dáng. Những ví dụ trên đây cho thấy vì chọn những cây nào có thể thu nhỏ lại mới trồng trong khung khổ Bonsai.

xay nha, mau nha dep, biet thu dep, sua nha


Trong cấu trúc Bonsai, số cánh hoa, nhiều hoặc ít, cũng góp phần tạo dáng cho hoa. Cánh hoa càng nhiều thì càng dài và càng làm cho dáng hoa tăng phần tao nhã. Thông thường, Bonsai thường thích những cánh hoa lẻ; hoa chùm không quý bằng hoa đơn chiếc. Tính lẻ loi, cô độc thường đi đôi với tính khiêm nhường, suy tư và thận trọng. Hoa mai Nhật Bản thường được chọn trong chiều hướng đó. Trồng cây cảnh thu nhỏ là một nghệ thuật ít tốn kém mà một người kéo xe hay một người giàu có, dòng dõi quí tộc đều có thể thực hành được. Trong bất cứ phòng khách nào của người Nhật cũng có chỗ dành riêng cho chậu cảnh. Chậu cây đặt trên một chiếc bàn con, phải vừa tầm nhìn của khách ngồi trong phòng để khách thấy được toàn thể mà khỏi nhướn người lên hay phải ngước mắt. Như thế khách mới đủ bình tĩnh nhận xét nghệ thuật cây cảnh, đồng thời cũng xuyên qua đó biết được tâm tính và thị hiếu của chủ nhà, đả biểu hiện rõ nét trong chậu cây yêu quý của họ.


Trong phòng khách dường như thiếu vắng những đồ đạc, tranh ảnh, sắc màu rực rỡ, mục đích là để cho khách để ý đến cây cảnh đặt nơi trang trọng của căn phòng. Những câu chuyện xã giao của họ cũng khởi đầu bằng chuyện cây cảnh. Thưởng thức một vật bé nhỏ như thế đòi hỏi phải có tầm nhìn tinh tế, sâu sắc. Thành thử người Tây Phương đến đây trong giao dịch, thù tiếp với phong cách nầy nếu không hiểu được chút gì về Bonsai, cũng là chuyện thiệt thòi, trở ngại. Chính vì thế, trong thị trường người Nhật không ghi danh mục Bonsai, vì theo họ, đưa một chậu Bonsai ra nước ngoài trong hoàn cảnh đó, khiến cho cây cô đơn vô cùng. Thật ra, Bonsai của Nhật cũng có những nét đặc thù. Nét nầy do ýthức của người trồng và sự quý mến cây cảnh. Người ta thường cho rằng nghệ thuật trồng cây cảnh nầy bắt nguồn từ Trung Quốc du nhập và đã có từ đời Đường, Tống. Người Nhật cũng thường du nhập văn hoá, nghệ thuật nước ngoài. Sự du nhập nầy nhiều khi quá đáng, theo quan sát nhiều người.


Tuy nhiên, có một điều phải xác nhận là một khi du nhập, thì người Nhật đã biến đổi theo thần trí và hồn tính của mình. Bonsai cũng nằm trong phạm trù nầy. Những chậu cây cảnh Trung Quốc giống như những chậu diệp lan, thường thấy chưng bày trong nhiều khách sạn Âu Mỹ. Nhưng nhìn kỹ, sẽ thấy thiếu sinh khí, hỗn độn, không đặt đúng cách, thậm chí khôngai đoái hoài đến. Chậu cảnh của Nhật thì khác hẳn. Mỗi chậu đều tuân thủ quy luật chính xác, không lẫn lộn vào đâu được, nếu để bên cạnh Bonsai Trung Quốc. Nghệ nhân Bonsai rất am tường quy luật đó. Họ có thứ triết lý riêng cho Bonsai. Triết lý đó là: Chậu cây cảnh là tượng trưng cho sự khắc khổ và khôn ngoan. Hiểu được nghệ thuật đó đã không dễ. Cây cảnh thu nhỏ tiêu biểu cho một cây già lâu năm, đứng trơ trọi một mình trong vũ trụ bao la, có dáng dấp và phong thái rất đẹp. Tạo được hình ảnh như thế cho một cây bé nhỏ chỉ cao khoảng 30cm thường trồng bằng hạt quả là việc không phải dễ dàng gì! Nhưng đó lại là một điều cần thiết trong bước khởi đầu.


Theo người Nhật, bất cứ việc gì muốn được xem là toàn thiện thì không những phải hội đủ các đặc tính vật chất, mà còn mang một tính chất không thể cân lường, không thể nhìn thấy, hướng về cõi vô hình. Người Nhật gọi tên là "sabi". Thuật ngữ "sabi" thật khó dịch ra đúng nghĩa. Có người tạm dịch là "patine", tức là lớp meo mốc, rêu phong, bám vào vật bằng đồng cũ, vào tấm bia cổ. Nhưng "sabi" lại có tính chất tinh tế hơn. Những bậc thầy về Bonsai có nhiều bí quyết để tạo ra nét rêu phong như thế. Không thể dán vào tùy tiện được. Gọi đó là nghề gia truyền, quả không ngoa. Thị trường cây cảnh Mỹ cũng bán sabi! Nhưng đó là giả tạo. Họ không hiểu ý nghĩa của sabi trong nghệ thuật. Đừng nói đến việc tạo sabi đúng phẩm chất. Chúng ta có thể hiểu thêm, khi đi sâu vào.


Trong Bonsai Nhật, đôi loại vỏ cây sù sì nhưng mềm tự nhiên có được rêu phong, nhưngphần đông lại không có. Một cây hoàn hảo về mọi mặt trong phép trồng nầy, nhưng thiếu điểm tạo rêu phong nầy tức là chưa đạt. Bonsai thường mang tính "già nua". Có nhiều đặc tính góp phần tạo ra cảm giác "già nua cực độ". Muốn vậy, cần có thời gian. Từ khimới mọc cho đến khi chết, không một bộ phận nào của cây cỏ giữ nguyên tỉ lệ kích thước, vóc dáng, màu sắc của lá, của rễ, của cành. Những thay đổi đó thường gây trở ngại trong việc tái tạo những đường nét chi li trong một mô hình thu nhỏ. Trong phạm vi nầy, người Nhật thường có những "mặc ước" gọi là "ngoại luật" (licences) về thẩm mỹ. Điều nầy cũng giống như ngoại luật trong thi ca. Chơi cây cảnh cũng là một nghệ thuật. Trong phạm vi Bonsai cũng thế. Chẳng hạn như người ta có thể châm chước một cây cảnh có lá không tương xứng với thân và cành vì tương đối lớn, mặc dù đã tìm mọi cách làm cho chúng nhỏ lại và tạo lớp rêu phong cần thiết.


Người Nhật cũng chấp nhận một thân cây to đến độ nào đó, quá khổ nếu so với chiều cao của cây. Trong nghệ thuật Nhật, thường có những đột phá đó. Họ đã quen với tính "không tỉ lệ". Cũng như đọc thơ Haiku, xem loại kịch "Nôh". Thơ thì quá gọn, kịch có khi không lời. Cây cảnh Nhật không ra ngoài tính chất nghệ thuật đó. Một cây cảnh toàn hảo không mang dấu vết gì, kể cả những vết uốn nắn mà nó phải trải qua. Người ta thường ví điều nầy như một người đàn bà từng sống trong khuôn khổ, luôn luôn giữ nụ cười đôn hậu, không để lộ nét khổ đau. Một hiệp sĩ từ chiến trường về phải quên đi những thương tích trên mình, không kể lể với ai. Cây cảnh cũng tương tự như vậy. Không để lại dấu vết nào về thương tích cả.


Nghệ thuật Bonsai trọng về tự nhiên. Vỏ cây sần sùi, lồi lõm không đều, mặc dù phủ lớp rêu phong, nhưng phải là không có sự chắp nối, chiết cắt. Những cành vô dụng phải được cắt bỏ đi từ khi mới nhú ra, chẳng khác nào chữa trị tật xấu trẻ em. Tất cả thành phần trong cây cảnh phải hoà hợp, cành không nên già hơn rễ, rễ không già hơn cành. Khác đi, tức là giả tạo.


Một số nét kỹ thuật nhấn mạnh điểm nầy. Quan sát thì rõ. Đầu cây càng già thì càng tròn, trông giống như cái tán. Trái lại cây còn non thì đầu nhọn, được hiểu như tham vọng chưa được thoả mãn, trông thật trơ trẻn. Cũng như người, đến một lúc nào, cây cũng phải biết "an phận" của mình. Không gì khó coi hơn, một cây đã già nua mà "không biết nhẫn", cứ chìa đầu ra, hếch mặt lên trời. Đó là mất quân bình. Cũng là kém khôn ngoan, đã chống lại minh triết của tạo hoá. Chơi cây cảnh phải hiểu nguyên tắc nầy. Muốn tạo cho phần trên cùng của cây bé nhỏ có dáng tròn xinh xắn, cần phải tác động bằng nhiều cách. Hiệu quả tốt nhất là độ cạn của chậu. Các cành đều lệ thuộc ít nhiều vào rễ, vì rễ nuôi cành. Rễ đâm thẳng xuống, thì đầu cây phải nhọn. Rễ đâm ngang thì đầu bằng.
Khi mùa đông đến, người ta bứng cây ra đặt xuống đất trong vườn theo phương pháp hồi xuân, những cành trên thường chỉa lên trời vì đâm rễ xuống. Hiểu nguyên tắc nầy sẽ tạo nên tán tròn. Với những ý niệm kể trên, một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng trong Bonsai phải thể hiện được thế quân bình thiêng liêng trong vũ trụ. Đầu trên của cây hơi cong tròn, trông vẻ khiêm tốn. Nếu không, cây sẽ mất hết ý nghĩa. Tuy nhiên, người ta cũng thấy đột phá một vài cây cổ thụ có những cành bên trên ngả mạnh về sau. Trông tưởng như những trận cuồng phong làm cho xô dạt về một phía. Đó là thể hiện sự khổ đau của những người không muốn an phận, thủ thường. Có những người vào tuổi xế chiều vẫn còn bon chen, mưu danh đoạt lợi. Họ sẽ bị đánh bạt như loại cây nầy. Ngũ hành trong vũ trụ bẻ gãy họ. Người Nhật ít thích kiểu dáng nầy.


NGHỆ THUẬT CẮM HOA


Trong thiên nhiên, hoa được xem là "sứ giả của cái đẹp" trong vạn vật; hoa biểu trưng cho sức sống nở rộ và sự sống tràn đầy. Cắm hoa là một nghệ thuật kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật và những bông hoa; vì thế nghệ thuật cắm hoa trở nên thanh tao, lịch sự trong trang trí, phòng ăn, chính thất.


Ngày nay chiêm ngưỡng những tác phẩm cắm hoa, tìm hiểu và nắm vững được nghệ thuật cắm hoa đã trở thành ước muốn ngày càng mãnh liệt của nhiều người, nhất là phái nữ. Tuy nhiên, nắm vững được nghệ thuật cắm hoa đã không là chuyện giản đơn. Nó đòi hỏi người cắm hoa phải thông qua quan sát trong thực tế, nắm bắt được "cái thần" của hoa lá, hiểu được quy luật biến hoá của cây cỏ, hoà đồng của màu sắc.


Một tác phẩm cắm hoa có nghệ thuật cao là một tác phẩm truyền đạt được vẻ đẹp của hoa lá đến cho người thưởng thức. Từ trước, nghệ thuật cắm hoa có nhiều trường phái. Do có sự khác nhau về khu vực, môi trường, bối cảnh văn hoá, không gian phát triển, cho nên nghệ thuật cắm hoa cũng khác nhau. Nghệ thuật nầy bắt nguồn từ 3 nơi khác nhau: cắm hoa kiểu Nhật, cắm hoa kiểu Trung Quốc, cắm hoa kiểu Tây Phương.


Hoa trong tư tưởng Thiền thường mang tính đặc biệt. Trong cách hiểu và cách nhìn, đã có những tương thông đặc biệt.


Như Phật thoại "Niêm hoa vi tiếu". Khi đức Phật trên núi Linh Thứu xoay một bông hoa trên đỉnh đầu các ngón tay, rồi đưa ra trước tăng chúng. Hết thảy đều im lặng. Chỉ duy vị đại đệ tử của ngài là Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa) mỉm cười. Phật nói: "Ta có con mắt của Chánh Pháp, diệu tâm của Niết bàn, thực tướng của vô tướng. Pháp nầy siêu việt ngôn từ, nay trao truyền Ca Diếp". Từ đó khởi đầu việc truyền pháp từ đức Thích Ca Mâu Ni cho các đệ tử. Niêm hoa (Nenge) nghĩa là " cầm một bông hoa". "Cầm một bông hoa" tỏ ra rằng Phật tán thưởng bông hoa ấy; hoa với Ngài là một. Quan sát việc nầy Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tán thưởng cái "nhất như" đó. Vô Môn phiếm bàn: "Nếu hết thảy Thánh chúng khi đó đều mỉm cười thì Phật trao cho ai? Hoặc hôm đó Ca Diếp không mỉm cười, thì đức Thích Ca làm sao trao Pháp?" Nhìn qua chỉ là việc cầm một bông hoa, không hơn, không kém. "Cứ làm đi!" là một Thiền ngữ quan trọng.


Nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc


Lịch sử trồng hoa của người Trung Quốc vốn có từ lâu đời. Thời nào, vùng nào cũng có nhiều sách viết về hoa. Những ghi chép trong di tích cổ cũng có miêu tả về cách trồng hoa. Bên cạnh việc trồng hoa, nghệ thuật cắm hoa ở đây cũng có lịch sử và truyền thống lâu đời. Thoạt đầu, nghệ thuật về hoa chỉ hạn chế ở những khu trồng hoa cảnh, bó hoa, hoa cài lên tóc. Về sau, có tục dâng hoa cúng Phật, cúng Thần. Trong "Nam Sử" thời Lục Triều có ghi chép về nghệ thuật cắm hoa. Thời đó, các loại hoa và cây chính là: tùng, bách, trúc, thủy tiên.


Con người dùng hoa để nói lên một số đạo nghĩa. Thời đó, hoa chỉ được trồng trong các loại chậu; không có bình cắm. Vào đời Đường, nghệ thuật về hoa đã phát triển mạnh, nghệ thuật cắm hoa đã đi vào cung đình. Nhiều sách viết về nghệ thuật cắm hoa cũng được xuất bản; nổi tiếng là cuốn "Hoa cửu tích".


Đời Tống, nghệ thuật cắm hoa trong bình được cải thiện hơn. Đến đời Minh, thì nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc đã lên đến tột đỉnh, lưu hành đến nay. Những sách nghiên cứu về nghệ thuật cắm hoa trong thời kỳ nầy phải kể đến "Bình hoa phổ", "Bình hoa tam thuyết", "Bình sử". Riêng về "Bình Sử" được truyền sang Nhật, dịch nhiều lần trở thành tài liệu hướng dẫn nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản.


Ngoài việc coi trọng về hình dáng, màu sắc và mùi hương của hoara, nghệ thuật cắm hoa kiểu Trung Quốc còn chú trọng đến "hoa đức". Theo họ, hình dáng, màu sắc và mùi hương chỉ là "hữu hình"; còn "hoa đức" thì lại trừu tượng, thường mang ý nghĩa tượng trưng; chẳng hạn như lấy sự mềm mại của hoa để so sánh với vẻ đẹp yểu điệu của nữ giới; đồng thời, cũng cách chọn hoa những để mô tả đức độ của bậc chính nhân, quân tử. Điều nầy đã trở thành một đặc tính riêng của nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc.


Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản


Hoa đạo Nhật Bản bắt nguồn từ Trung Quốc, vào nước này đồng thời với nghi thức dâng hoa cúng Phật. Người Nhật đã nhanh chóng biến thành nghệ thuật riêng nước mình, trở thành nghệ thuật truyền thống. Trong thời gian lâu dài, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản dùng trong tế tự đền miếu, đàn tế, lưu hành trong giới tăng lữ. Đến thế kỷ VII, việc dâng hoa thờ được phổ biến trong lễ cúng dân gian, nhưng nghệ thuật về hoa cỏ vẫn chưa thịnh hành. Vào thế kỷ X, dùng hoa chẳng những trong lễ hội, mà còn để trang trí nhà cửa. Vào thế kỷ XIII, trong các đền miếu đã bắt đầu xuất hiện phương pháp cắm hoa và tạo hoa hình sen.


Tới thế kỷ thứ XIV, giới quý tộc Nhật có những ngày lễ hội thưởng hoa hằng năm gọi là "Hoa ngự hội" (thi cắm hoa), coi cắm hoa như là một môn nghệ thuật tiêu khiển, nhàn dật; kể từ đó trở đi, cắm hoa đã thoát dần màu sắc tôn giáo thuần túy, bước vào cung đình và các gia đình võ sĩ, quý tộc, trở thành một sản phẩm nghệ thuật để trang trí và xuất hiện trong những lễ hội.


Cũng từ đó hình thức cắm hoa bắt đầu được quy phạm hóa, vừa coi trọng chủ đề tư tưởng, vừa tôn sùng thiên nhiên; họ thường dùng 7 - 9 cành hoa, kết hợp với một số lá: hình thức "lập hoa" thời kỳ đầu tiên tại Nhật.


Vào thế kỷ XV - XVI, cắm hoa đã được phổ cập rộng rãi, nghệ thuật cắm hoa có những bước phát triển mạnh mẽ, phong cách nghệ thuật nầy cũng đã có những bước biến đổi tuơng đối lớn; ngoài hình thức "lập hoa" đã hoàn thiện, lại còn có hình thức "sinh hoa". Đây là hình thức cắm 3 cành hoa chính, tượng trưng cho Trời, Đất, Người.


Tác phẩm thường đơn giản, trong sáng, thanh nhã, được phổ cập và phát triển mạnh mẽ. Như thế, triết lý và tư tưởng từng bước đi vào nghệ thuật cắm hoa. Vào cuối thế kỷ XVII, "Bình sử" xâm nhập Nhật Bản và được phát huy, tạo thành "trường phái Hoằng Ðạo".

 

Sau thế kỷ XVIII, Nhật Bản tiếp tục xuất hiện trường phái cắm hoa "Tự do"; trường phái nầy không giống như "lập hoa" và "sinh hoa", mà dựa vào trực giác và cảm giác, kết hợp với nhau tùy ý niệm của mỗi người, không quá câu nệ vào hình thức nào. Đến thế kỷ XIX, nghệ thuật cắm hoa của Nhật vào giai đoạn thoái trào, do ảnh hưởng của xã hội và chính trị thời đó; mãi cho đến năm 1887, mới được hồi phục trở lại; tuy nhiên, trong giai đoạn nầy, với việc giao lưu cùng nhiều dòng nghệ thuật nước ngoài, nhất là ảnh hưởng của văn hoá Tây Phương cho nên phong trào cắm hoa của Nhật lại chuộng về kiểu "Thịnh hoa" (tức là kiểu Moribana).


Hoa đạo của Nhật từ đó cũng đã chuyển hướng, từ cắm hoa trong bình cao lại chuyển sang bình thấp và nông. Kiểu cắm hoa Moribana có thể được coi là bước đột phá trong lịch sử cắm hoa Nhật Bản; tuy nhiên bước đột phá nầy vẫn chưa làm cho giới thưởng thức hoa và nghiên cứu cắm hoa Nhật bản thoả mãn. Vào thế kỷ XX, hoa đạo Nhật Bản có chuyển hoá khác, mang tính chất lịch sử; đó là sự xuất hiện kiểu cắm hoa "Tự do" (Free style arrangement), hay còn gọi là kiểu cắm hoa "tiền vệ" (Avant - garde Ikebana). Ở một mức độ nào đó, kiểu cắm hoa nầy có những đường nét gần gủi với phong cách cắm hoa hiện đại của Tây Phương. Với người Nhật, chính lối nầy đã mang lại cho nghệ thuật cắm hoa Nhật trở nên rực rỡ, chói sáng. Người Nhật thường truyền tụng những giai thoại về nhìn hoa, thưởng hoa và vẽ hoa.


Một bậc thầy hoa cảnh Nhật Bản ngày nọ đi xem triển lãm hội họa. Ông đứng nhìn bức tranh vẽ nhánh hoa huệ giữa một khu vườn. Saukhi ngắm nghía hồi lâu, vị hoa sư bèn hỏi tác giả của bức tranh:


- Có phải ông vẽ phỏng theo một nhánh hoa mà người ta cắt bán cho ông không?


- Thưa thầy, đúng vậy. Nhưng sao thầy biết?


- Có cái gì thiếu vắng ở nhánh hoa của ông khiến tôi thấy được đây là hoa chết chứ không phải là hoa sống. Cái thiếu vắng đó là quầng sáng vô hình của sự sống, tuy tôi không cắt nghĩa được nhưng cảm thấy rõ ràng.


- Thưa thầy, quả cặp mắt của thầy không phải là mắt của người phàm. Trong giai thoại hoa Nhật, có hàng ngàn mẫu chuyện như vậy.


Nói chung, người sành về hoa có thể nhìn suốt từ trước đến sau, từ nội tâm ra ngoại cảnh.


Nghệ thuật cây cảnh Tây Phương


Nghệ thuật cây cảnh Tây Phương bắt nguồn từ khu vực ven Địa Trung Hải và phát triển đến ngày nay, đã trở thành một trong những trào lưu nghệ thuật cắm hoa chính - cắm hoa theo phong cách Tây Phương. Lịch sử cắm hoa ở đây vốn có từ lâu đời. Sách sử và di tích khảo cổ cho biết: Ngay từ những năm 2,000 trước Công nguyên, thời kỳ của nền "Văn minh sông Nil", tại Ai Cập đã có những bức họa trên tường đá, mô tả việc dùng hoa sen và hoa thủy tiên trong cách trang trí. Cũng có người dùng những loại hũ có miệng hẹp để cắm hoa. Trong Kim Tự Tháp của Ai Cập, người ta cũng đã phát hiện ra dấu tích của một loài hoa hoá thạch. Đó là loại tường vi, rất phổ biến trên đất nước này.


xay nha, mau nha dep, biet thu dep, sua nha
Phương pháp cắm hoa trong giai đoạn nầy còn thô sơ: vừa không có vẻ đẹp về đường nét, lại vừa không có những kết hợp nhiều loại hoa bên cạnh nhau. Từ thời kỳ Cổ Hy Lạp cho đến thời Hậu Kỳ Cổ La Mã, người ta thường dùng hoa vàng để trang trí trong những lễ hội. Thiếu nữ cũng thường đội những vương miện được kết bằng hoa hồng. Kiểu dáng nầy biểu trưng cholòng chung thủy trong thuật yêu đương. Thành thử trong nghệ thuật cắm hoa và kết hoa Tây Phương, kiểu nầy vẫn còn bảo lưu cho đến ngày nay, với những thay đổi qua từng thời đại. Có hai kiểu cắm hoa trong giai đoạn nầy: cắm hoa ở lọ và cắm hoa trong lẵng.


Vào thế kỷ XIX, hạng quý tộc, thượng lưu Tây Phương bắt đầu quan tâm và say mê nghệ thuật cắm hoa, từ việc xử lý nghệ thuật cắm hoa cho đến cách phối hợp màu sắc nhiều loại hoa. Ngoài ra, cũng có những nghệ nhân chế tác các bình hoa, chậu hoa đủ kiểu dáng; có người lại chuyên nghiên cứu về không gian cắm hoa. Họ đề ra những nguyên tắc về cắm hoa, với nhiều trường phái. Tính ra có 32 trường phái cắm hoa khác nhau. Nhờ phát triển, nên cắm hoa đã trở thành một lối trang trí và thưởng ngoạn trong bất cứ hội họp, tiệc tùng, nhàn đàm. Vào đầu thế kỷ XX, nhà nghệ thuật học Gertrude Jekyll cho xuất bản cuốn "Flower decoration in the home" có tác dụng gợi mở rấtlớn trong nghệ thuật cắm hoa sau nầy. Đây là nền tảng của nghệ thuật cắm hoa Tây Phương hiện đại. Những thập niên gần lại đây, nghệ thuật cắm hoa Tây Phương đã chịu ảnh hưởng của Hoa đạo Nhật cũng như Thiền Phái. Do đó, đã nẩy sinh những kiểu cắm hoa đa dạng, thiên về triết lý.


Nghệ thuật cắm hoa cổ điển chỉ hạn chế ở chỗ căm hoa vào bình. Người cắm hoa chỉ chọn một cành ít hoa, rồi tạo hình và chọn độ dài thích hợp. Hình thức cắm hoa trong thời đó còn đơn giản, thuần phác, thường chỉ giữ lại kiểu dáng của ho, chứ không gia công về mặt kỹ thuật và nghệ thuật. Lọ hoa đa phần bằng gốm; ngoài ra, trong giới quý tộc, vương tước thì dùng những thứ lọ bằng ngọc thạch, thủy tinh. Trong những bức hoa cổ điển cho thấy: màu sắc thiên về sự rực rỡ, chói chang.


Trong nghệ thuật cắm hoa cổ điển Trung Quốc thường tạo ra những khoảng trống thích hợp giữa các cành hoa với nhau; nhờ thế tạo nét thanh nhã. Nghệ thuật cổ điển Nhật thường tận dụng cành lá đơn giản, thể hiện rõ đường nét của cành hoa. Cắm hoa cổ điển Tây Phương thích sự đàng bệ, dùng hoa nhiều, bình to. Nghệ thuật cắm hoa hiện đại không những được sáng tác dựa theo nguyên tắc cắm hoa cơ bản, cũng không đơn thuần thể hiện sự hoà hợp của thiên nhiên, mà chủ đích là để biểu đạt quan niệm và tư tưởng của cá nhân mỗi người.


Sáng tạo là chủ điểm của nghệ nhân cắm hoa hiện nay; trong bất cứ cành lá được sắp xếp bên cạnh nhau, kể cả những khoảng trống không gian cũng đều muốn gửi gắm một ý tưởng riêng tư của mình. Ngôn ngữ của từng cây hoa cũng được họ chú tâm trong việc chọn lọc. Trong nghệ thuật cắm hoa hiện đại, cần phải có trí tưởng tượng lựa chọn cành hoa nào, thiết kế ra sao, cách tạo hình theo chủ điểm gì? Với họ, chậu hoa là nguồn thơ, là nguồn tư tưởng, triết học.Mỗi công trình cắm hoa phải là một giá trị biểu cảm. Phải bỏ nhiều thì giờ suy nghiệm, cân nhắc, trước khi bắt tay vào. Thành thử, những trường phái "cắm hoa tự do", "cắm hoa tiền vệ" và "cắm hoa trừu tượng" vốn là 3 khuynh hướng cắm hoa chính hiện nay.


XÂY DỰNG NON BỘ


Đá: Trong các lập vườn cảnh, hòn non bộ cũng là một trong những thể tài quan trọng và được truyền tụng từ ngàn năm lại đây. Non bộ còn được gọi là "núi giả" (giả sơn) hay "bồn cảnh", vì thông thường khi nào tạo non bộ cũng dựng trên bể nước. Nước lưu thông hay nước đứng. Đây cũng là một thành phần đặc sắc nhất của nghệthuật vườn hoa Việt Nam và Trung Quốc.


Theo Lâm Ngữ Đường thì: "Đá tượng trưng cho sự trường thọ, mà người TrungQuốc thì lại yêu tất cả cái gì trường tồn. Thứ nhất là về phương diện nghệ thuật, nó có vẻ khôi vĩ, hùng kỳ, chanh vanh, cổ nhã. Ngoài ra nó còn cho ta một cảm giác chon von. Một mỏm đá cao cả trăm thước dựng đứng trên mặt đất, nhìn nó ai mà không rùng rợn, như trước cảnh nguy hiểm, cho nên người Trung Hoa gọi đó là "nguy". Người chơi đá thường chú ý đến màu sắc, vân, mắt đá (mịn hay không mịn) và có khi cả tới tiếng kêu khi gõ vào đá nữa. Đá càng nhỏ thì lại càng chú ý đến cái vân và cái mặt mịn của nó. Nhiều người thu thập loại nghiên mực và con dấu bằng đá, thành thử nghệ thuật chơi đá càng phát triển thêm.


Người Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam trong khi bố cục cây cảnh Bonsai thường nhìn sự vật với con mắt tín ngưỡng. Cơ cấu đối với người xưa không ngoài ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đá theo quan niệm của người Đông Phương được xem là "Thiên địa chi linh, chí khí kết nhi vi thạch, phụ thổ xuất, trang vi kỳ quái" nghĩa là: "Những chí tinh anh trong Trời, Đất, kết tinh lại làm thành đá. Đá đâm thủng đất mọc lên, có hình dáng kỳ quái".


Thành thử trong việc cấu tác non bệ chính là thể hiện toàn vẹncác nguyên khí đó được thu tóm trong một khung khổ nhỏ. Với quan niệm siêu hình và tín ngưỡng như vậy, cho nên người xưa hướng về việc dựng non bộ chẳng chỉ vì hình thái kết tinh của hòn đá với óc thẩm mỹ của họ, mà còn có ý nghĩa thần linh nữa. Những người chơi non bộ, chơi đá thích những loại đá vôi ở gần bờ, bị sóng gió dập vùi lâu ngày thành có lỗ, có bọng, ngấm nước đóng rêu hơn là viên đá tròn trịa. Ở Trung Quốc, có một số đá đẹp, danh tiếng, thường ghi trong sử sách hay của những người chơi cổ ngoạn như loại đá Côn Sơn, đá Linh Bích, đá Quế Xuyên, đá Thái Hồ, đá Anh, đá Dung, đá Xuyên... Nổi tiếng hàng đầu là đá Linh Bích ở Sơn Tây.


Cái thế của đá: Muốn hiểu rõ tất cả những công dụng của đá trong sự trang hoàng nhà cửa, sân vườn, thì phải nghiên cứu đến nghệ thuật "thư pháp" của Trung Hoa và Nhật Bản. Thư pháp chú trọng đến "cái thế", "cái vẻ nhịp nhàng" của nét chữ. Một khối đá cần gây được cảm giác hùng vĩ, bất tục, nhưng các đường nét của nó cũng phải có "thế", phải "nhịp nhàng" nữa, phải đường đột, tự nhiên, chứ không phải là hình tròn, hình tam giác.
Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử thường xưng tán những thứ đá quý không đục đẽo. Tuyệt nhiên không nên tô điểm thiên nhiên, và nghệ thuật hoàn toàn nhất thì không để lộ một chút gắng sức nào của nghệ sĩ, phải tự nhiên như mây bay, nước chảy, không có vết đục đẽo nào cả, như các nhà phê bình Trung Hoa thường nói. Quy tắc đó áp dụng cho tất cả các thể loại nghệ thuật. Cái đẹp của đá phải linh lung, hoạt bát, biến đổi. Cho nên hầu hết các giả sơn đều dùng những phiến đá không đục đẽo. Vườn hoa là sự thể hiện một cảnh lý tưởng, còn hòn non bộ là sự thu nhỏ lại cảnh núi rừng. Cảnh đó có thật hay chỉ trong tưởng tượng. Câu thơ tóm tắt lại ý nghĩa của hòn non bộ "Nhất lạp phiêu trung tàng thế giới" (Một hạt nhỏ tàng trữ cả thế giới).


Như thế, nghệ thuật của non bộ là loại điêu khắc thể hiện một cảnh núi rừng bằng chất liệu thật là đá, đất, nước và cây sống. Những hình tượng bằng sành hay bằng đất nung mà điêu khắc thường để kết hợp diễn tả một sự tích làm cho hòn non bộ có nội dung và sinh hoạt, sinh động thêm. Đã là một môn nghệ thuật, cho nên việc xây dựng nóiđòi hỏi nhiều công phu và nhất là tinh thần sáng tạo.


Thông thường khi dựng hòn non bộ phải trải qua 3 giai đoạn: (1) Chọn đá thích hợp cho thể tài của mình đã phác họa và xây dựng một hình thế đẹp và hợp với nội dung non bộ. (2) Phải trồng và sửa cây cho tương xứng. (3) Gắn những hình tượng bé để diễn tả một sự tích nào đó như đã hoạch định. Trước hết là vấn đề chọn đá. Điều nầy không phải đơn giản, tùy tiện, không thể lấy bất cứ loại đá nào của núi cũng làm non bộ được. Nó phải là một thứ đá vôi hút nước, có hình thể nhất định. Trong thực tế, để diễn tả cho đúng sự thật thì những đỉnh núi cao chót vót với những tảng đá nhô ra, có gân dọc trên vách đá dựng đứng, bên cạnh những hố sâu thăm thẳm, có hang, có động, tất cả đều nói lên vẻ lớn lao, nguy nga với con người. Đó là cảnh đẹp.


Thành thử muốn diễn tả hoàn chỉnh được những nét đặc thù như vậy, người chơi non bộ phải chọn hòn đá nào hợp với kích thước nhỏ bé, mà lại có đủ dáng dấp và chi tiết như thế (núi, hố, hang, động). Có thế mới có cảmtưởng như đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Thực tế thật khó tìm kiếm được một hòn đá như ý muốn; phải ghép nhiều mảnh lại choăn khớp.


Trong thể loại điêu khắc nầy, người ta không thể và không cần thiết đục đá theo hình dáng đã định trước. Vì nếu làm như thế, chẳng những mất hết vẻ tự nhiên, mà mặt đá chắc nịch thì cỏ cây, rêu xanh cần thiết cho vẻ đẹp của hòn non bộ cũng khó mọc lên được. Thành thử, chọn được những hòn đá thích hợp chính là phần quan trọng trong việc dựng một hòn non bộ. Hàn Dũ cho rằng: "Cái thế của non bộ cũng giống nh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Girls Generation - Korean